Ngay từ khi khai phá con đường cứu nước, cứu dân, cách đây hơn một thế kỷ, Bác Hồ đã là người tự chủ. Từ cảm nhận về con đường cứu nước của các nhà yêu nước đương thời, Nguyễn Tất Thành độc lập chọn con đường riêng. Đi qua nhiều châu lục, làm đủ các nghề để sống, tiếp xúc, giao lưu với đủ lớp người, Nguyễn Tất Thành nghĩ suy, tìm phương hướng. Người tham gia Đảng Xã hội Pháp, chỉ vì đây là “tổ chức duy nhất ở Pháp bênh vực nước tôi, là tổ chức duy nhất theo đuổi lý tưởng cao quý của Đại cách mạng Pháp: Tự do, Bình đẳng, Bác ái". Nhưng khi tiếp nhận ánh sáng Cách mạng Tháng Mười Nga, đọc Luận cương của V.I.Lê-nin, Nguyễn Ái Quốc thấy, “đây là con đường giải phóng chúng ta”; từ đó khẳng định: Phải đi theo con đường Cách mạng Tháng Mười. Đối với Người, chủ nghĩa Lê-nin, Cách mạng Tháng Mười là một con đường để lựa chọn, là phương tiện, chứ không phải là mục tiêu cao nhất, cái đích cuối cùng. Khát vọng cao cả, ước mơ tận cùng của Nguyễn Ái Quốc và ngày nay trở thành mục tiêu tối thượng của Đảng ta là dân tộc được giải phóng, được làm chủ; Tổ quốc được độc lập, thống nhất, giàu mạnh; nhân dân được tự do, ấm no, hạnh phúc; xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, mọi người đều sống với nhau trong tình thân ái.
Để độc lập tự chủ, mà trước hết là độc lập tự chủ về đường lối cách mạng và độc lập tự chủ lựa chọn những người thực thi đường lối, đối với Nguyễn Ái Quốc, không chỉ là tình cảm cách mạng, yêu nước, thương dân, mà phải có cả trí tuệ, tầm nhìn và lý luận cách mạng. Anh tìm đến quê hương của V.I.Lê-nin. Không gặp được Người, Anh vào Trường đại học Phương Đông, sau này, Nguyễn Ái Quốc còn học tiếp Trường quốc tế Lê-nin, làm nghiên cứu sinh chuyên ngành lịch sử. Anh biết, phải học rộng, hiểu sâu, so sánh với thực tiễn diễn ra ở mọi phương trời, mới có thể độc lập tự chủ, tự tin để sáng tạo. Với kho kiến thức đồ sộ có được và sự từng trải, từ yêu nước, đến với tư tưởng cách mạng của Lê-nin, rồi đi sâu nghiên cứu Mác, Nguyễn Ái Quốc thấy cần phải vận dụng sáng tạo, bổ sung và phát triển chủ nghĩa Mác cho phù hợp với điều kiện mỗi nước, “xem xét lại chủ nghĩa Mác về cơ sở lịch sử của nó, củng cố nó bằng dân tộc học phương Đông". Phải hiểu tính cách mạng, khoa học này của Nguyễn Ái Quốc, ta mới hiểu vì sao khi thành lập Đảng, ngày 3-2-1930, Nguyễn Ái Quốc lại đặt tên là Đảng Cộng sản Việt Nam và Chính cương vắn tắt của Đảng chủ trương: “tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”, trong khi Quốc tế Cộng sản nhấn mạnh đấu tranh giai cấp, coi nhẹ dân tộc, định hướng phải thành lập Đảng Cộng sản ở cả Đông Dương. Nguyễn Ái Quốc cho rằng, "chủ nghĩa dân tộc là động lực lớn của đất nước,... Khi chủ nghĩa dân tộc của họ thắng lợi,... nhất định chủ nghĩa dân tộc ấy sẽ biến thành chủ nghĩa quốc tế".
Phúc đức lớn cho Đảng ta, là các học trò, những người kế tục sự nghiệp cách mạng của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh luôn luôn trung thành tuyệt đối với dân tộc, theo gương sáng và xả thân thực hiện khát vọng cháy bỏng của Người: Sau Hội nghị thành lập Đảng, ngày 3-2-1930, theo chỉ thị của Quốc tế Cộng sản, Hội nghị Trung ương tháng 10-1930, đổi tên Đảng Cộng sản Việt Nam thành Đảng Cộng sản Đông Dương. Nhưng việc thay đổi ấy không làm thay đổi bản chất và nhiệm vụ cách mạng của Đảng. Luận cương chính trị do Tổng Bí thư Trần Phú dự thảo, vẫn bám sát những luận điểm cơ bản được trình bày trong Chính cương và Sách lược vắn tắt của Nguyễn Ái Quốc tại Hội nghị thành lập Đảng.
Cao trào Xô-viết Nghệ-Tĩnh 1930 -1931, bị kẻ thù phản kích quyết liệt. Ban Chấp hành Trung ương Đảng được bầu ở Hội nghị Trung ương tháng 10-1930 hầu hết bị bắt. Để hỗ trợ lực lượng lãnh đạo trong nước, Quốc tế Cộng sản chỉ đạo thành lập Ban Chỉ huy ở ngoài nước. Các đồng chí Lê Hồng Phong, Hà Huy Tập lần lượt được cử giữ chức vụ Tổng Bí thư của Đảng, đã tổ chức đưa đảng viên ở nước ngoài về. Nhờ sự chủ động, tích cực sáng tạo của lực lượng trong nước cùng sự hỗ trợ từ nước ngoài, phong trào cách mạng ở nước ta nhanh chóng được khôi phục, phát triển mạnh mẽ trong Cao trào dân chủ, với nhiều hình thức đấu tranh phong phú.
Khi chiến tranh thế giới lần thứ hai nổ ra, để phù hợp với tình hình mới, tại Hội nghị tháng 11-1939 của Trung ương Đảng, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ cùng các đồng chí Lê Duẩn, Phan Đăng Lưu, Võ Văn Tần,... chủ động quyết định chuyển hướng chỉ đạo chiến lược cách mạng, tạm gác khẩu hiệu về ruộng đất, tập trung mũi nhọn vào chống đế quốc và tay sai, mở ra một cao trào mới - cao trào vận động cách mạng giành chính quyền trong cả nước.
Ngày 9-3-1945, phát-xít Nhật đảo chính thực dân Pháp. Ngay trong đêm ấy, Tổng Bí thư Trường-Chinh triệu tập Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương mở rộng. Ở thời điểm này, Bác Hồ đi công tác nước ngoài, hai đồng chí trong Ban Thường vụ thì Hoàng Văn Thụ hy sinh, Hoàng Quốc Việt vắng mặt, toàn bộ trọng trách đặt lên vai Tổng Bí thư. Với ý thức tự lực, tự cường, độc lập tự chủ, đồng chí Trường-Chinh trực tiếp viết Chỉ thị “Nhật Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta", chỉ đạo toàn Đảng, toàn dân tiến hành cao trào kháng Nhật, cứu nước.
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là sự sáng tạo tuyệt vời của Đảng ta, là thành quả vĩ đại của tinh thần độc lập tự chủ, “đem sức ta mà tự giải phóng cho ta" theo tư tưởng Hồ Chí Minh và sự chỉ đạo của Người. Trước khi Đảng ta ra đời, trên thế giới, đã có những hình mẫu cách mạng chống áp bức, cường quyền. Đó là Công xã Pa-ri, ngày 18-3-1871, giai cấp công nhân khởi nghĩa, lật đổ chính phủ tư sản, thiết lập chính quyền Công xã. Đó là Cách mạng Tháng Mười Nga, ngày 7-11-1917, dưới sự lãnh đạo của Đảng bôn-sê-vích và V.I.Lê-nin, công nhân, binh lính cách mạng đã nổi dậy khởi nghĩa vũ trang, thiết lập Nhà nước Xô-viết. Sau Cách mạng Tháng Mười, rất nhiều Đảng Cộng sản được thành lập. Ở châu Á - Thái Bình Dương, Đảng Cộng sản In-đô-nê-xi-a ra đời năm 1920, Đảng Cộng sản Trung Quốc thành lập năm 1921, số lượng đảng viên đông gấp nhiều lần Đảng ta, có nhiều hình thức đấu tranh, có cả lý luận “chính quyền trên đầu súng”, “nông thôn bao vây thành thị”,... nhưng chưa giành được chính quyền trong “thời cơ phát-xít đầu hàng”. Vì vậy, Cách mạng Tháng Tám thắng lợi và sự ra đời của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, năm 1945, thật sự là cuộc vùng dậy giành chính quyền dưới ngọn cờ đại đoàn kết toàn dân tộc của Đảng; không phải đổ máu, không giống các cuộc khởi nghĩa vũ trang trước đó. Để có thắng lợi, Đảng ta đã phải độc lập tự chủ, sáng tạo, trải nghiệm qua nhiều hình thức đấu tranh, chuẩn bị lực lượng từ ba cao trào cách mạng và nắm đúng thời cơ.
Sau Cách mạng Tháng Tám, chính quyền non trẻ của nhân dân ta đứng trước thử thách to lớn, “ngàn cân treo sợi tóc”. Nhưng, độc lập tự chủ, Bác Hồ và Trung ương Đảng đã chèo lái con thuyền cách mạng vượt qua được thác ghềnh. Phát huy bài học kinh nghiệm của Cách mạng Tháng Tám, Bác Hồ và Trung ương Đảng ta tự chủ đề ra đường lối đúng đắn, sáng tạo dẫn dắt hai cuộc chiến tranh kéo dài hơn 30 năm chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ đến thắng lợi hoàn toàn. Cuộc chiến đấu của nhân dân ta chống đế quốc Mỹ xâm lược là cuộc đụng đầu lịch sử lớn nhất từ sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, lâu dài nhất, khó khăn nhất và vĩ đại nhất trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc. Nhân dân ta phải đương đầu với kẻ thù mạnh hơn mình gấp bội, Đảng ta vừa phải có đường lối và phương pháp cách mạng đúng, vừa phải kiên cường, bất khuất trước sức ép đa chiều, nhiều hướng, vừa giúp đỡ, vừa khống chế, thậm chí cả thỏa hiệp, đầu hàng. Đảng ta, đứng đầu là Bác Hồ, sau này là Tổng Bí thư Lê Duẩn, trung thành tuyệt đối với lợi ích dân tộc, suy nghĩ độc lập, vận dụng sáng tạo quan điểm, phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào tình hình cụ thể nước ta; biết chủ động mở đầu và kết thúc cuộc chiến tranh, điều hành cả hai chiến lược, miền bắc, miền nam, tài giỏi trên cả mặt trận chính trị, quân sự và ngoại giao để giành toàn thắng.
Sau Đại thắng mùa Xuân 1975, đất nước ta lại trải qua khó khăn mới, bị bao vây cấm vận. Cả nước cùng Đảng gồng mình vượt qua “thiếu thốn trăm bề”, giữ vững ổn định, đánh thắng hai cuộc chiến tranh xâm lược ở biên giới tây nam và biên giới phía bắc,... Bị đẩy tới chân tường của khó khăn chồng chất, Đảng ta độc lập tự chủ, đột phá bằng việc “tự chỉ trích” và bằng con đường đổi mới toàn diện đất nước. Đồng chí Trường-Chinh trở lại trọng trách, khẳng định, đổi mới là “vấn đề có tầm quan trọng sống còn". Ý Đảng hợp lòng dân, “phải tự cứu mình trước khi trời cứu”, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh vững vàng chèo lái con thuyền cách mạng vượt qua thách thức; kiên trì thực hiện đổi mới, nhưng kiên quyết giữ vững các nguyên tắc định hướng xã hội chủ nghĩa; tăng cường sự lãnh đạo của Đảng; tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân; thực hiện nhất quán chủ trương “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra", “nói đi đôi với làm”. Bằng những thành tựu của sự nghiệp đổi mới, bằng sự kiên định nguyên tắc này, Đảng ta và đất nước ta vẫn đứng vững, không đi vào các vết xe đổ, khi chủ nghĩa Mác - Lê-nin bị tiến công từ nhiều phía, Liên Xô tan rã, các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu sụp đổ.
Khẳng định bản lĩnh độc lập tự chủ, giữ vững nguyên tắc, tin ở dân tộc và tự tin ở chính mình, các Tổng Bí thư Đỗ Mười, Lê Khả Phiêu, Nông Đức Mạnh tiếp nối trọng trách đứng đầu Đảng, triển khai đồng bộ, toàn diện công cuộc đổi mới, từng bước đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, phá thế bao vây cấm vận, mở rộng giao lưu, hội nhập quốc tế. Công cuộc đổi mới thu được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử.
Từ cái nền được tạo dựng của Bác Hồ, của các Tổng Bí thư và tập thể lãnh đạo đi trước, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cùng Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị đi tiếp con đường đổi mới trong tình hình quốc tế và đất nước có nhiều diễn biến khó khăn, phức tạp. Không thỏa mãn với những gì đã đạt được trong “thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử”, nhân dân ta đòi hỏi công cuộc đổi mới phải tạo ra bước nhảy vọt, toàn diện, đồng bộ để xây dựng và phát triển đất nước nhanh hơn, bền vững hơn. Trong khó khăn chồng chất và ngổn ngang công việc phải làm, trên cơ sở giữ vững nguyên tắc của Cương lĩnh, Đảng ta tập trung làm sáng rõ hơn con đường và mục tiêu cách mạng, cố gắng từng bước tạo dựng mô hình mới trong thế giới đầy biến động. Sớm ý thức được nguy cơ của một đảng cầm quyền, dễ tha hóa về quyền lực, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, đồng chí Tổng Bí thư cùng Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư tập trung nhiều công sức để tăng cường xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức, cán bộ và phương thức lãnh đạo. Trước những diễn biến phức tạp của tình hình quốc tế và khu vực, thực hiện lời dạy của Bác Hồ, “dĩ bất biến, ứng vạn biến”, Bộ Chính trị và người đứng đầu của Đảng ta, nêu cao bản lĩnh chính trị, tỉnh táo xử lý các tình huống, kiên quyết bảo vệ độc lập, chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, giữ vững ổn định chính trị, đẩy mạnh kinh tế - xã hội, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế, bảo đảm môi trường hòa bình để phát triển đất nước.
Trên thế và lực mới, thể hiện “là thành viên có trách nhiệm” với cộng đồng quốc tế, Đảng, Chính phủ và toàn dân ta đẩy mạnh giao lưu, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng hơn. Cuộc viếng thăm của người đứng đầu Đảng đến Mỹ - cường quốc ở Tây bán cầu, có ý nghĩa lịch sử đặc biệt, tạo ra tiền đề mới cho quan hệ đa phương hóa, đa dạng hóa; thừa nhận sự khác biệt, tôn trọng thể chế chính trị, chấp nhận khách quan vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Phải chăng đây là thành quả của độc lập tự chủ, là nhân - quả của sự kiên định và thành tựu đổi mới, hội nhập? Rõ ràng, uy tín của Đảng và vị thế Việt Nam ngày nay được nâng cao hơn rất nhiều.
Mùa Xuân này, Đảng ta bước vào Ngày hội lớn. Cả dân tộc Việt Nam đang dõi theo và có quyền tin tưởng vào thắng lợi to lớn.
Nguồn nhandan.com.vn
-
Untitled Document -
-
-
Đang online: 1 Hôm nay: 10169 Trong tuần: 19 Trong tháng 322645 Tất cả: 18471424