SỰ CẦN THIẾT SỬA ĐỔI, BỔ SUNG MỘT SỐ ĐIỀU CỦA LUẬT CÔNG AN NHÂN DÂN
Cập nhật ngày: 4-03-2022
Qua hơn 70 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành, lực lượng Công an nhân dân ngày càng lớn mạnh, lập được nhiều chiến công xuất sắc, góp phần giữ vững ổn định chính trị - xã hội, cùng toàn Đảng, toàn quân, toàn dân thực hiện thắng lợi đường lối đổi mới, sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước.
Năm 2018, Luật Công an nhân dân ban hành, đã tạo cơ sở pháp lý tương đối đầy đủ, toàn diện để lực lượng Công an nhân dân thực hiện chức năng, nhiệm vụ tham mưu cho Đảng, Nhà nước về bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự an toàn xã hội, đấu tranh phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật; thực hiện quản lý nhà nước về bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự an toàn xã hội, đáp ứng được yêu cầu công tác Công an trong tình hình mới. Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi và kết quả đạt được, quá trình thực hiện Luật Công an nhân dân đã bộc lộ một số vướng mắc, bất cập như sau:
Thứ nhất, quy định hạn tuổi phục vụ cao nhất của sĩ quan, hạ sĩ quan, công nhân Công an nhân dân
Hạn tuổi phục vụ cao nhất đối với sĩ quan, hạ sĩ quan, công nhân công an được quy định trên cơ sở điều kiện, môi trường, tính chất công việc và đặc thù về tổ chức bộ máy của lực lượng Công an nhân dân, đồng thời đảm bảo tương quan với tuổi nghỉ hưu của người lao động quy định tại Bộ luật Lao động. Tuy nhiên, theo quy định của Bộ luật Lao động năm 2019 (có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2021) thì tuổi nghỉ hưu của người lao động trong điều kiện lao động bình thường được điều chỉnh theo lộ trình cho đến khi đủ 62 tuổi đối với nam vào năm 2028 và đủ 60 tuổi đối với nữ vào năm 2035. Do đó, khoảng cách về tuổi nghỉ hưu giữa cán bộ, chiến sĩ Công an nhân dân với người lao động tăng lên. Bộ luật Lao động được coi là “Luật gốc”, điều chỉnh về tuổi nghỉ hưu của người lao động, vì vậy, khi tuổi nghỉ hưu của người lao động thay đổi thì cũng cần phải sửa đổi quy định hiện hành về hạn tuổi phục vụ cao nhất của sĩ quan, hạ sĩ quan, công nhân công an tại Luật Công an nhân dân, Nghị định số 49/2019/NĐ-CP ngày 06/6/2019 của Chính phủ quy định chi tiết và biện pháp thi hành một số điều của Luật Công an nhân dân.
Bên cạnh đó, thực tiễn thực hiện nhiệm vụ cho thấy, trong lực lượng Công an nhân dân, nhiều cán bộ có thời gian công tác lâu năm, có kinh nghiệm thực tiễn, thông thuộc địa bàn, đặc biệt là địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, phức tạp, trọng điểm về an ninh, trật tự trong công tác lãnh đạo, chỉ huy có nhiều cán bộ đang chỉ đạo điều tra, xử lý những chuyên án đặc biệt đã đến tuổi nghỉ hưu nhưng do yêu cầu liên thông, liên hoàn trong chỉ huy nên cần phải được kéo dài hạn tuổi phục vụ cao nhất để tiếp tục hoàn thành nhiệm vụ đang được giao. Mặt khác, khoản 2 Điều 13 Luật Sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam quy định về kéo dài tuổi phục vụ tại ngũ đối với sĩ quan Quân đội nhân dân trong trường hợp đặc biệt nhưng Luật Công an nhân dân chưa quy định về nội dung này.
Thứ nhất, quy định hạn tuổi phục vụ cao nhất của sĩ quan, hạ sĩ quan, công nhân Công an nhân dân
Hạn tuổi phục vụ cao nhất đối với sĩ quan, hạ sĩ quan, công nhân công an được quy định trên cơ sở điều kiện, môi trường, tính chất công việc và đặc thù về tổ chức bộ máy của lực lượng Công an nhân dân, đồng thời đảm bảo tương quan với tuổi nghỉ hưu của người lao động quy định tại Bộ luật Lao động. Tuy nhiên, theo quy định của Bộ luật Lao động năm 2019 (có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2021) thì tuổi nghỉ hưu của người lao động trong điều kiện lao động bình thường được điều chỉnh theo lộ trình cho đến khi đủ 62 tuổi đối với nam vào năm 2028 và đủ 60 tuổi đối với nữ vào năm 2035. Do đó, khoảng cách về tuổi nghỉ hưu giữa cán bộ, chiến sĩ Công an nhân dân với người lao động tăng lên. Bộ luật Lao động được coi là “Luật gốc”, điều chỉnh về tuổi nghỉ hưu của người lao động, vì vậy, khi tuổi nghỉ hưu của người lao động thay đổi thì cũng cần phải sửa đổi quy định hiện hành về hạn tuổi phục vụ cao nhất của sĩ quan, hạ sĩ quan, công nhân công an tại Luật Công an nhân dân, Nghị định số 49/2019/NĐ-CP ngày 06/6/2019 của Chính phủ quy định chi tiết và biện pháp thi hành một số điều của Luật Công an nhân dân.
Bên cạnh đó, thực tiễn thực hiện nhiệm vụ cho thấy, trong lực lượng Công an nhân dân, nhiều cán bộ có thời gian công tác lâu năm, có kinh nghiệm thực tiễn, thông thuộc địa bàn, đặc biệt là địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, phức tạp, trọng điểm về an ninh, trật tự trong công tác lãnh đạo, chỉ huy có nhiều cán bộ đang chỉ đạo điều tra, xử lý những chuyên án đặc biệt đã đến tuổi nghỉ hưu nhưng do yêu cầu liên thông, liên hoàn trong chỉ huy nên cần phải được kéo dài hạn tuổi phục vụ cao nhất để tiếp tục hoàn thành nhiệm vụ đang được giao. Mặt khác, khoản 2 Điều 13 Luật Sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam quy định về kéo dài tuổi phục vụ tại ngũ đối với sĩ quan Quân đội nhân dân trong trường hợp đặc biệt nhưng Luật Công an nhân dân chưa quy định về nội dung này.
Lực lượng Công an tỉnh Bạc Liêu ra quân bảo đảm an ninh trật tự bảo vệ
các sự kiện chính trị và Tết Nguyên đán Nhâm Dần năm 2022
Vì vậy, để phù hợp với thực tiễn công tác, chiến đấu của lực lượng Công an nhân dân thì cần thiết bổ sung quy định về kéo dài hạn tuổi phục vụ cao nhất đối với sĩ quan Công an nhân dân trong trường hợp đặc biệt tại Luật Công an nhân dân.
Thứ hai, về thăng cấp bậc hàm cấp Tướng trước thời hạn đối với sĩ quan Công an nhân dân có thành tích đặc biệt xuất sắc đạt được trong chiến đấu và công tác
Tại khoản 1 Điều 23 Luật Công an nhân dân quy định: “Sĩ quan, hạ sĩ quan, chiến sĩ Công an nhân dân lập thành tích đặc biệt xuất sắc trong bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, đấu tranh phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật, xây dựng lực lượng Công an nhân dân, nghiên cứu khoa học, công tác, học tập mà cấp bậc hàm hiện tại thấp hơn cấp bậc hàm cao nhất đối với chức vụ, chức danh sĩ quan, hạ sĩ quan, chiến sĩ đang đảm nhiệm thì được xét thăng cấp bậc hàm trước thời hạn”. Khoản 3 Điều 23 Luật Công an nhân dân quy định: “Chủ tịch nước quyết định việc thăng cấp bậc hàm trước thời hạn và thăng cấp bậc hàm vượt bậc đối với cấp bậc hàm cấp Tướng”.
Thực hiện quy định nêu trên, Bộ Công an đã ban hành văn bản quy định cụ thể về thăng cấp bậc hàm trước thời hạn đối với sĩ quan, hạ sĩ quan, chiến sĩ Công an nhân dân lập thành tích đặc biệt xuất sắc có cấp bậc hàm từ Đại tá trở xuống. Tuy nhiên, đối với việc thăng cấp bậc hàm cấp Tướng trước thời hạn thì Luật Công an nhân dân chưa quy định cụ thể tiêu chí, tiêu chuẩn có thành tích đặc biệt xuất sắc nên khó triển khai thực hiện trên thực tế.
Thứ ba, về cấp bậc hàm cao nhất đối với chức vụ, chức danh của sĩ quan Công an nhân dân
Hiện nay, Đảng và Nhà nước cho phép số lượng, vị trí cấp Tướng trong Công an nhân dân tối đa là 205. Tuy nhiên, Luật Công an nhân dân mới quy định cụ thể 199 vị trí có cấp bậc hàm cấp Tướng (01 Đại tướng, 06 Thượng tướng, 35 Trung tướng, 157 Thiếu tướng). Sau khi Bộ Công an kiện toàn, sắp xếp tổ chức bộ máy, vẫn còn một số đơn vị tương đương cấp Cục (Trường Đại học Cảnh sát nhân dân, Trường Đại học An ninh nhân dân, Trợ lý Bộ trưởng Bộ Công an...) chưa được quy định có trần cấp bậc hàm cấp Tướng.
Bên cạnh đó, ngày 09/12/2020, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số 1111/NQ-UBTVQH14 về sắp xếp các đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã và thành lập thành phố Thủ Đức thuộc thành phố Hồ Chí Minh; trong tương lai thành phố Hà Nội và các thành phố trực thuộc Trung ương khác có thể thành lập đơn vị hành chính đặc biệt như thành phố Thủ Đức. Đây là những đơn vị hành chính có quy mô quản lý địa bàn lớn hơn cấp quận nhưng khoản 1 Điều 25 Luật Công an nhân dân chỉ quy định Trưởng Công an thành phố thuộc thành phố trực thuộc Trung ương có cấp bậc hàm cao nhất là Thượng tá là chưa phù hợp với tính chất địa bàn, vị trí, chức năng, nhiệm vụ của các đơn vị này.
Ngoài ra, đối với Trung đoàn Cảnh sát cơ động, đặc nhiệm, không quân, bảo vệ mục tiêu thuộc Bộ Tư lệnh Cảnh sát Cơ động, Bộ Tư lệnh Cảnh vệ, Công an thành phố Hà Nội, Công an thành phố Hồ Chí Minh là các đơn vị tương đương cấp Phòng, là đơn vị vũ trang tập trung, quân số lớn, trực tiếp chiến đấu và áp dụng biện pháp nghiệp vụ để thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm tuyệt đối an toàn lãnh đạo Đảng, Nhà nước, mục tiêu, công trình, sự kiện chính trị quan trọng; đấu tranh phòng, chống tội phạm, vi phạm pháp luật về an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội; quản lý địa bàn rộng trên phạm vi cả nước và địa bàn đô thị. Tuy nhiên, Luật Công an nhân dân mới chỉ quy định Trung đoàn trưởng có cấp bậc hàm cao nhất là Thượng tá (điểm e khoản 1 Điều 25) nên chưa phù hợp với vị trí, tính chất, chức năng, nhiệm vụ quan trọng của các đơn vị này.
Từ những vấn đề nêu trên việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Công an nhân dân là cần thiết, nhằm bảo đảm tính thống nhất trong hệ thống pháp luật; hoàn thiện cơ sở pháp lý về chế độ, chính sách đối với lực lượng Công an nhân dân./.
Thứ hai, về thăng cấp bậc hàm cấp Tướng trước thời hạn đối với sĩ quan Công an nhân dân có thành tích đặc biệt xuất sắc đạt được trong chiến đấu và công tác
Tại khoản 1 Điều 23 Luật Công an nhân dân quy định: “Sĩ quan, hạ sĩ quan, chiến sĩ Công an nhân dân lập thành tích đặc biệt xuất sắc trong bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, đấu tranh phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật, xây dựng lực lượng Công an nhân dân, nghiên cứu khoa học, công tác, học tập mà cấp bậc hàm hiện tại thấp hơn cấp bậc hàm cao nhất đối với chức vụ, chức danh sĩ quan, hạ sĩ quan, chiến sĩ đang đảm nhiệm thì được xét thăng cấp bậc hàm trước thời hạn”. Khoản 3 Điều 23 Luật Công an nhân dân quy định: “Chủ tịch nước quyết định việc thăng cấp bậc hàm trước thời hạn và thăng cấp bậc hàm vượt bậc đối với cấp bậc hàm cấp Tướng”.
Thực hiện quy định nêu trên, Bộ Công an đã ban hành văn bản quy định cụ thể về thăng cấp bậc hàm trước thời hạn đối với sĩ quan, hạ sĩ quan, chiến sĩ Công an nhân dân lập thành tích đặc biệt xuất sắc có cấp bậc hàm từ Đại tá trở xuống. Tuy nhiên, đối với việc thăng cấp bậc hàm cấp Tướng trước thời hạn thì Luật Công an nhân dân chưa quy định cụ thể tiêu chí, tiêu chuẩn có thành tích đặc biệt xuất sắc nên khó triển khai thực hiện trên thực tế.
Thứ ba, về cấp bậc hàm cao nhất đối với chức vụ, chức danh của sĩ quan Công an nhân dân
Hiện nay, Đảng và Nhà nước cho phép số lượng, vị trí cấp Tướng trong Công an nhân dân tối đa là 205. Tuy nhiên, Luật Công an nhân dân mới quy định cụ thể 199 vị trí có cấp bậc hàm cấp Tướng (01 Đại tướng, 06 Thượng tướng, 35 Trung tướng, 157 Thiếu tướng). Sau khi Bộ Công an kiện toàn, sắp xếp tổ chức bộ máy, vẫn còn một số đơn vị tương đương cấp Cục (Trường Đại học Cảnh sát nhân dân, Trường Đại học An ninh nhân dân, Trợ lý Bộ trưởng Bộ Công an...) chưa được quy định có trần cấp bậc hàm cấp Tướng.
Bên cạnh đó, ngày 09/12/2020, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số 1111/NQ-UBTVQH14 về sắp xếp các đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã và thành lập thành phố Thủ Đức thuộc thành phố Hồ Chí Minh; trong tương lai thành phố Hà Nội và các thành phố trực thuộc Trung ương khác có thể thành lập đơn vị hành chính đặc biệt như thành phố Thủ Đức. Đây là những đơn vị hành chính có quy mô quản lý địa bàn lớn hơn cấp quận nhưng khoản 1 Điều 25 Luật Công an nhân dân chỉ quy định Trưởng Công an thành phố thuộc thành phố trực thuộc Trung ương có cấp bậc hàm cao nhất là Thượng tá là chưa phù hợp với tính chất địa bàn, vị trí, chức năng, nhiệm vụ của các đơn vị này.
Ngoài ra, đối với Trung đoàn Cảnh sát cơ động, đặc nhiệm, không quân, bảo vệ mục tiêu thuộc Bộ Tư lệnh Cảnh sát Cơ động, Bộ Tư lệnh Cảnh vệ, Công an thành phố Hà Nội, Công an thành phố Hồ Chí Minh là các đơn vị tương đương cấp Phòng, là đơn vị vũ trang tập trung, quân số lớn, trực tiếp chiến đấu và áp dụng biện pháp nghiệp vụ để thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm tuyệt đối an toàn lãnh đạo Đảng, Nhà nước, mục tiêu, công trình, sự kiện chính trị quan trọng; đấu tranh phòng, chống tội phạm, vi phạm pháp luật về an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội; quản lý địa bàn rộng trên phạm vi cả nước và địa bàn đô thị. Tuy nhiên, Luật Công an nhân dân mới chỉ quy định Trung đoàn trưởng có cấp bậc hàm cao nhất là Thượng tá (điểm e khoản 1 Điều 25) nên chưa phù hợp với vị trí, tính chất, chức năng, nhiệm vụ quan trọng của các đơn vị này.
Từ những vấn đề nêu trên việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Công an nhân dân là cần thiết, nhằm bảo đảm tính thống nhất trong hệ thống pháp luật; hoàn thiện cơ sở pháp lý về chế độ, chính sách đối với lực lượng Công an nhân dân./.
Phước Thành - Phòng Tham mưu Công an tỉnh
Các tin khác
-
Untitled Document -
-
-
Đang online: 1 Hôm nay: 7934 Trong tuần: 67482 Trong tháng 443886 Tất cả: 17537469