Nỗ lực thu hẹp khoảng cách giữa các vùng, miền
Cập nhật ngày: 2-03-2016
 
Nhìn lại kết quả thực hiện công tác dân tộc và chính sách dân tộc (CSDT) trong nhiệm kỳ 2011 - 2015, đã thấy những dấu hiệu khả quan trên mọi phương diện đời sống của đồng bào vùng dân tộc và miền núi (DT&MN) của cả nước. Tuy nhiên, phía trước còn không ít khó khăn, thách thức cần sự nỗ lực, phối hợp đồng bộ hơn nữa của các cấp, ngành địa phương và của chính người dân, để thu hẹp khoảng cách chênh lệch giữa các vùng DT&MN với các vùng, miền trong cả nước.
 

Từ vốn vay của các chương trình 134, 135, gia đình anh Nguyễn Xuân Tuyến ở bản Co Củ, xã Thanh Minh, TP Điện Biên phát triển mô hình kinh tế trang trại, cảo tạo rừng trồng, ao nuôi cá cho hiệu quả kinh tế cao. Ảnh: TRẦN VIỆT

Những điểm sáng xóa đói, giảm nghèo

Hệ thống CSDT giai đoạn 2011-2015 được xây dựng khá đồng bộ, bao phủ các lĩnh vực, địa bàn DT&MN, được thể chế bằng các nghị định, nghị quyết của Chính phủ, với 154 chính sách hướng tới nâng cao đời sống đồng bào dân tộc thiểu số (DTTS). Theo Bộ trưởng, Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc Giàng Seo Phử, trong năm năm, ngân sách Nhà nước thực hiện các CSDT đã bố trí đầu tư 135.800 tỷ đồng (chiếm 12,8% kinh phí đầu tư cho nông nghiệp nông thôn) để thực hiện các chính sách ở vùng DT&MN. Riêng kinh phí bố trí thực hiện các chương trình, chính sách do Ủy ban Dân tộc quản lý là 27.144,0 tỷ đồng, chiếm 2,55% kinh phí đầu tư cho nông nghiệp nông thôn.

Một trong những điểm sáng trong thực hiện CSDT là Chương trình 135 của Chính phủ về phát triển kinh tế, xã hội các xã, thôn, bản đặc biệt khó khăn vùng DT&MN. Hiệu quả từ việc triển khai Chương trình 135 đã góp phần quan trọng làm thay đổi diện mạo nông thôn, vùng sâu, vùng xa, miền núi, góp phần quan trọng vào việc xóa đói, giảm nghèo, nâng cao chất lượng đời sống vật chất, tinh thần cho đồng bào các dân tộc. Chương trình 135 giai đoạn ba thực hiện trên địa bàn 2.331 xã, 3.059 thôn, ở 415 xã biên giới và 190 xã ATK, đã đầu tư gần 20 nghìn công trình cơ sở hạ tầng thiết yếu (đường giao thông, điện sinh hoạt, thủy lợi, trường học, trạm y tế, nhà sinh hoạt cộng đồng và chợ nông thôn). Đến hết năm 2015, có 80 xã đặc biệt khó khăn của 23 tỉnh và 366 thôn, bản của 30 tỉnh hoàn thành mục tiêu Chương trình 135.

Cùng các đoàn đi khảo sát thực tế, để cảm nhận niềm vui của bà con khi hiệu quả của Chương trình 135 đã hiện diện trong đời sống. Các công trình duy tu tại Thanh Hóa; mô hình nuôi dê tại Hòa Bình; sản xuất giống ngô mới tại Quảng Trị); nuôi ba ba ở Cà Mau; các dự án hỗ trợ phát triển sản xuất tại Vĩnh Phúc; công trình kênh mương thủy lợi ở Quảng Ninh… Với sự hỗ trợ của Nhà nước, đồng bào các DTTS đẩy mạnh phát triển sản xuất, chăn nuôi gia súc, nuôi trồng thủy sản để xóa đói, giảm nghèo, vươn lên làm giàu. Nhiều mô hình sản xuất tiên tiến được nhân rộng, góp phần thu hút lao động, giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập, ổn định và nâng cao đời sống cho bà con.

Lào Cai có tỷ lệ đồng bào DTTS chiếm tới 65,6%, là một điểm sáng ở vùng Tây Bắc trong triển khai thực hiện tốt các CSDT. Kinh nghiệm thực tế tại đây thông qua Chương trình 135 là đã sử dụng hiệu quả vốn đầu tư vào việc tạo sinh kế cho đồng bào vượt khó phát triển và vươn lên, nhất là hỗ trợ vốn, đất đai, tư liệu, vật tư, công cụ và phương pháp... cho đồng bào phát triển sản xuất. Điều này không chỉ góp phần tạo nguồn cung phục vụ cho tiêu dùng tại chỗ, tạo việc làm mà còn tham gia vào thị trường hàng hóa, nâng cao nhận thức xóa bỏ các tập quán canh tác lạc hậu cho đồng bào, cải thiện thu nhập.

Cần hơn nữa sự chung sức, đồng lòng

Bài học thực hiện CSDT ở Lào Cai cho thấy, bên cạnh đầu tư hỗ trợ phát triển sản xuất, tỉnh cũng dành nhiều kinh phí đầu tư cải thiện cơ sở hạ tầng vùng sâu, vùng xa, lồng ghép sáng kiến huy động nguồn lực đóng góp, tài trợ từ bên ngoài để đầu tư cho việc xây dựng các công trình dân sinh. Tuy nhiên, theo Chủ tịch UBND tỉnh Lào Cai Đặng Xuân Phong, công tác dân tộc của tỉnh còn gặp nhiều thách thức, đó là nhu cầu nguồn lực đầu tư để phát triển kết cấu hạ tầng thiết yếu, vốn cho xây dựng nông thôn mới, vốn để thực hiện theo định mức giảm nghèo nhanh và bền vững giai đoạn 2015-2020 là rất lớn, sẽ vượt quá khả năng đáp ứng của ngân sách tỉnh, nguồn vốn đầu tư cho các chính sách chưa đáp ứng nhu cầu mục tiêu… Đối với địa phương có đông đồng bào Khmer như Trà Vinh, nhờ các chương trình phát triển kinh tế - xã hội, đời sống sinh hoạt của người nghèo được cải thiện, tỷ lệ hộ nghèo Khmer hằng năm giảm 4%, bộ mặt nông thôn ngày càng khởi sắc… Kết quả này là sự ghi nhận đáng kể những nỗ lực trong công tác dân tộc và thực hiện CSDT ở đây. Tuy vậy, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Trà Vinh Kim Ngọc Thái vẫn trăn trở: “Đầu tư các nguồn vốn chưa tập trung, còn dàn trải, việc phân bổ nguồn lực thực hiện CSDT chưa đáp ứng nhu cầu thực tế của địa phương”. Tại Hội nghị tổng kết công tác dân tộc và CSDT vừa diễn ra tại Lào Cai, nhiều ý kiến cũng cho rằng, bên cạnh những kết quả thì còn không ít hạn chế, cần sự vào cuộc đồng bộ hơn nữa từ các phía liên quan để các CSDT đến gần sát đời sống người nghèo, đồng bào vùng DT&MN.

Các tỉnh Tây Nguyên nói chung và Đác Nông nói riêng hằng năm tiếp nhận số lượng dân di cư rất lớn. Mặc dù Đác Nông đã được quan tâm thực hiện nhiều chương trình, dự án ổn định dân di cư tự do, nhưng nguồn lực đầu tư từ Trung ương bố trí hạn chế, trong khi ngân sách của tỉnh chưa tự cân đối để triển khai thực hiện. Phó Chủ tịch UBND tỉnh Đác Nông Cao Huy mong muốn có cơ chế, chính sách đặc thù và tiếp tục được quan tâm hơn trong công tác thực hiện chính sách ổn định dân di cư tự do, chính sách định canh định cư cho đồng bào các dân tộc nhằm từng bước ổn định cuộc sống, phát triển kinh tế, bảo đảm an ninh quốc phòng.

Chia sẻ những khó khăn với đồng bào vùng DT&MN trong xây dựng nông thôn mới, Bộ trưởng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Cao Đức Phát cho rằng, vùng DT&MN phần lớn diện tích canh tác còn nhờ nước trời nên khó ứng phó trong tình hình biến đổi khí hậu ngày càng gay gắt; trình độ sản xuất lạc hậu, do đó, thời gian tới, bộ cùng các địa phương phối hợp chỉ đạo khuyến khích phát triển nông nghiệp, hướng dẫn đồng bào chuyển mạnh sang phát triển nông nghiệp hàng hóa, coi đây là con đường rộng mở để xóa đói, giảm nghèo bền vững, hạn chế tự cung tự cấp, làm ra các sản phẩm có khả năng cạnh tranh cao.

Nhiệm vụ trọng tâm trong năm 2016 trong công tác dân tộc và CSDT là, tập trung chỉ đạo thực hiện đồng bộ, có hiệu quả các chương trình, chính sách, đề án đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt; trọng tâm là Chương trình 135 và các chính sách đặc thù; chú trọng đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng thiết yếu như giao thông, thủy lợi, trường học, trạm y tế ở vùng DT&MN, biên giới; củng cố và kiện toàn đội ngũ cán bộ làm công tác dân tộc ở T.Ư và địa phương. Để đạt được các mục tiêu đã đề ra, theo chỉ đạo của Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Thủ tướng Chính phủ, Trưởng Ban Chỉ đạo Tây Bắc Nguyễn Xuân Phúc, các bộ, ngành, Ủy ban Dân tộc và các tỉnh, thành phố vùng đồng bào DTTS cần phối hợp thực hiện tốt năm vấn đề, trong đó xây dựng thể chế, CSDT và miền núi sát thực tế, phù hợp vùng miền, dân tộc là quan trọng. Các cơ chế, chính sách tránh trùng lặp, chồng chéo. Công tác tuyên truyền trong vùng đồng bào DTTS cần theo hướng ngắn gọn, dễ hiểu, dễ làm. Quy định trách nhiệm cụ thể đối với người đứng đầu trong thực hiện CSDT...

Nguồn nhandan.com.vn