Kế thừa và phát huy truyền thống của dân tộc, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện thực tiễn của đất nước, trong tiến trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đặc biệt coi trọng vai trò của quần chúng nhân dân, khơi dậy lòng tự tôn, tự hào dân tộc, tinh thần yêu nước, ý thức tự giác, tổ chức và tạo điều kiện để nhân dân tham gia trực tiếp, đầy đủ vào các nhiệm vụ cách mạng.
Dưới sự lãnh đạo sáng suốt, tài tình của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, toàn dân tộc ta đã dấn thân vào cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, chấp nhận hy sinh, gian khổ.
Từ phong trào Xô Viết - Nghệ Tĩnh 1930-1931, đấu tranh dân chủ 1936-1939, khởi nghĩa Nam Kỳ, phong trào cách mạng 1941-1945, cách mạng Việt Nam đã từng bước trưởng thành, lớn mạnh, vượt qua những khó khăn, thử thách hết sức khắc nghiệt đi đến thắng lợi của cách mạng tháng Tám năm 1945, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam châu Á.
Ngay sau cách mạng tháng Tám, chính quần chúng nhân dân, với lòng yêu nước, niềm tin vào Bác Hồ, vào Đảng và cách mạng đã sát cánh cùng các lực lượng vũ trang nhân dân bảo vệ vững chắc nhà nước công nông non trẻ trước hiểm họa “thù trong, giặc ngoài”.
Trong 9 năm kháng chiến chống thực dân Pháp, bằng thế trận chiến tranh toàn dân, toàn diện; từ phòng ngự chuyển sang chủ động tấn công; kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, quân và dân ta đã làm nên chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”, kết thúc chiến tranh, đưa miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội, làm hậu phương lớn cho miền Nam “anh dũng thành đồng” thực hiện cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân.
Trong kháng chiến chống Mỹ, vượt qua những đau thương, mất mát khôn cùng, tinh thần yêu nước, niềm tin mãnh liệt vào chiến thắng của quân và dân ta ở cả hai miền Nam, Bắc tiếp tục được nhân lên gấp bội, trở thành sức mạnh nội lực, vũ khí tinh thần đặc biệt, quyết định; cùng sự ủng hộ của các nước xã hội chủ nghĩa anh em và nhân dân tiến bộ, yêu chuộng hòa bình thế giới đưa đất nước ta đi tới thắng lợi cuối cùng với Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử ngày 30-4-1975, bước vào kỷ nguyên độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; trở thành biểu tượng của lương tri thời đại, là nguồn cổ vũ động viên to lớn đối với các dân tộc trên thế giới đấu tranh vì độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Lực lượng Công an và Quân đội phối hợp tuần tra, canh gác bảo vệ vùng biển. |
Đất nước hòa bình, thống nhất nhưng tình hình thế giới, khu vực, trong nước cũng còn nhiều khó khăn, thách thức không kém phần cam go, quyết liệt với cách mạng Việt Nam như: xung đột biên giới, đe dọa chủ quyền lãnh thổ, sự chống phá của địch trong kế hoạch hậu chiến, tác động từ sự thoái trào của mô hình chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu và những khó khăn về kinh tế, xã hội do chiến tranh để lại…
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý điều hành của Nhà nước, với khối đại đoàn kết toàn dân vững chắc, được xây dựng trên nền tảng của liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, sức mạnh của các lực lượng vũ trang nhân dân, công cuộc đổi mới, hội nhập quốc tế của đất nước, nhân dân ta đã vượt qua khó khăn, thách thức và đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; giữ vững ổn định chính trị; phát triển kinh tế - xã hội, đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; tăng cường quốc phòng - an ninh; mở rộng quan hệ đối ngoại, nâng cao vị thế của nước ta trên trường quốc tế; tạo ra cơ đồ, tương lai tươi sáng cho toàn dân tộc.
Trong giai đoạn cách mạng mới, thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh và từ thực tiễn lịch sử cách mạng Việt Nam, bảo vệ Tổ quốc luôn là vấn đề cốt lõi được Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đặc biệt quan tâm; trong đó, tư duy lý luận về vai trò của quần chúng nhân dân, sự kết hợp giữa phong trào quần chúng với các lực lượng cách mạng, nhất là lực lượng vũ trang nhân dân trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đã không ngừng được đúc rút, bổ sung, hoàn thiện.
Tại Đại hội lần thứ X, Đảng ta xác định: “Xây dựng thế trận lòng dân làm nền tảng phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, trong đó Quân đội nhân dân và Công an nhân dân làm nòng cốt” (Đảng Cộng sản Việt Nam, Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng).
Bổ sung và phát triển quan điểm này, Báo cáo chính trị Đại hội lần thứ XI của Đảng tiếp tục chỉ rõ: “... Tăng cường sức mạnh quốc phòng, an ninh cả về tiềm lực và thế trận; xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố vững mạnh; xây dựng thế trận lòng dân vững chắc trong thực hiện Chiến lược bảo vệ Tổ quốc... Xây dựng Quân đội nhân dân và Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, có số lượng hợp lý, với chất lượng tổng hợp và sức chiến đấu cao, đồng thời quan tâm xây dựng lực lượng dự bị động viên hùng hậu, dân quân tự vệ rộng khắp, sẵn sàng chiến đấu bảo vệ Tổ quốc trong mọi tình huống” (Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 224, 235).
Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) đã xác định những định hướng lớn là: “Tăng cường quốc phòng, giữ vững an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của Đảng, Nhà nước và toàn dân, trong đó Quân đội nhân dân, Công an nhân dân là lực lượng nòng cốt. Xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân kết hợp chặt chẽ với thế trận an ninh nhân dân vững chắc. Phát triển đường lối nghệ thuật quân sự chiến tranh nhân dân và lý luận, khoa học an ninh nhân dân...” (Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, sự thật, Hà Nội, 2011, tr.82).
Trong phương hướng, nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, Đại hội XII của Đảng đã tiếp tục khẳng định: “... Xây dựng “thế trận lòng dân”, tạo nền tảng vững chắc xây dựng nền quốc phòng toàn dân và nền an ninh nhân dân” (Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr.149).
Có thể thấy, sự phát triển tư duy lý luận về thế trận lòng dân và mối quan hệ của thế trận lòng dân với nền quốc phòng, an ninh, thế trận tổng hợp bảo vệ Tổ quốc trong các nghị quyết của Đảng ta là hết sức kịp thời, có tính lịch sử, hệ thống, tính cách mạng, khoa học sâu sắc; cần được quán triệt, thực hiện liên tục, thường xuyên trong hệ thống chính trị và các tầng lớp nhân dân, trong mối liên hệ chặt chẽ với những thuận lợi, khó khăn, những yếu tố bên trong, bên ngoài.
Thời gian tới, trên thế giới, khu vực, xu hướng hợp tác, phát triển vẫn là chủ đạo nhưng cũng còn nhiều yếu tố đe dọa hòa bình, an ninh quốc tế, đó là: chủ nghĩa ly khai, mâu thuẫn tôn giáo, sắc tộc, hoạt động khủng bố quốc tế, tranh chấp chủ quyền lãnh thổ, biển đảo, trong đó có biển Đông, việc đề cao, tuyệt đối hóa lợi ích quốc gia và chủ nghĩa cường quyền nước lớn, chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi và chủ nghĩa dân túy… tác động trực tiếp đến quốc phòng, an ninh của nước ta.
Cùng những thách thức từ bên ngoài, ở trong nước, nghiêm túc nhìn nhận, quá trình đổi mới, phát triển, hội nhập quốc tế của đất nước, sự vận hành của thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa bên cạnh thành tựu đạt được là cơ bản, cũng bộc lộ nhiều vấn đề đáng lo ngại đã được Đảng ta kiểm điểm, đánh giá, chỉ rõ và kiên quyết khắc phục trong thời gian qua, như: đạo đức xã hội xuống cấp, lối sống thực dụng, vị kỷ gia tăng, tình trạng phân hóa giàu nghèo sâu sắc, tệ tham nhũng, lãng phí, suy thoái về tư tưởng chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”... trong cán bộ, đảng viên, tình hình tội phạm có diễn biến phức tạp… làm suy giảm niềm tin của nhân dân với Đảng, Nhà nước, gây chia rẽ trong nội bộ, là nguyên nhân trực tiếp đe dọa sự tồn vong của chế độ…
Bên cạnh đó, các thế lực thù địch, phản động luôn tận dụng mọi thời cơ, điều kiện, nhất là những sai lầm, thiếu sót của chúng ta trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc để chống phá, nhằm xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng, làm chệch hướng con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta thông qua chiến lược “diễn biến hòa bình” hết sức tinh vi, thâm độc và xảo quyệt cũng như các hình thức chống phá khác; chúng cho rằng, làm suy yếu, tan vỡ “thế trận lòng dân” bằng cách ly gián, làm mất lòng tin của nhân dân với Đảng, Nhà nước thì nền quốc phòng, an ninh sẽ tự suy yếu, không còn, ngược lại, sự suy yếu của nền quốc phòng, an ninh cũng sẽ dẫn tới sự suy yếu, tan vỡ của “thế trận lòng dân”.
Bối cảnh tình hình nêu trên càng cho thấy quán triệt yêu cầu xây dựng thế trận lòng dân vững chắc để tạo nền tảng xây dựng nền quốc phòng, an ninh, thế trận tổng hợp bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa có vị trí, vai trò và ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong giai đoạn hiện nay và là nhiệm vụ chính trị trọng tâm của lực lượng vũ trang nhân dân, nòng cốt là Quân đội nhân dân và Công an nhân dân.
Đối với lực lượng Công an nhân dân, việc thực hiện nhiệm vụ chính trị này đòi hỏi cấp ủy, thủ trưởng Công an các đơn vị, địa phương và mỗi cán bộ, chiến sĩ cần tập trung thực hiện tốt những nội dung, nhiệm vụ trọng tâm sau đây:
Một là, cần nhận thức sâu sắc về vị trí, vai trò, ý nghĩa của thế trận lòng dân trong chiến lược bảo vệ Tổ quốc. Ý chí, quyết tâm của nhân dân, của toàn xã hội được vun đắp, xây dựng, tạo thành sự đồng thuận cao, hướng tới mục tiêu chung bảo vệ đất nước, đó chính là thế trận lòng dân. Xây dựng thế trận lòng dân là tạo nền tảng vững chắc để xây dựng nền quốc phòng, an ninh của đất nước.
Mục tiêu, nội dung cần đạt được trong xây dựng thế trận lòng dân là làm cho mỗi người dân, các tầng lớp nhân dân tin tưởng vào chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, tự giác, tự nguyện kết thành khối đại đoàn kết toàn dân vững chắc, góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Cảnh giác trước mọi âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch nhằm lôi kéo, kích động, gây chia rẽ, ly gián nhân dân với Đảng, Nhà nước và lực lượng vũ trang nhân dân.
Theo đó, lực lượng Công an nhân dân cần phối hợp chặt chẽ với Quân đội nhân dân, quán triệt sâu sắc phương châm “giữ vững bên trong là chính”, chủ động nắm tình hình, phối hợp với các chủ thể có trách nhiệm, thẩm quyền, phát hiện, tháo gỡ kịp thời những khó khăn, vướng mắc trong nhận thức, tâm tư, tình cảm, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân; làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn gây chia rẽ ý Đảng, lòng dân, chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc; tham mưu với Đảng, Nhà nước, cấp ủy Đảng, chính quyền các cấp củng cố, xây dựng hệ thống chính trị cơ sở vững mạnh, ổn định; xây dựng phong trào Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc có bề rộng, chiều sâu; tăng cường tuyên truyền đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, để nhân dân ý thức đầy đủ hơn về quyền và nghĩa vụ của mình, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý, điều hành của Nhà nước.
Có biện pháp, cách làm phù hợp, tạo thuận lợi, động viên, khuyến khích quần chúng nhân dân tích cực thi đua yêu nước, tham gia thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, phòng chống tội phạm, xây dựng xã hội an toàn, lành mạnh, bình yên, ấm no, hạnh phúc.
Hai là, việc kết hợp thế trận quốc phòng toàn dân với thế trận an ninh nhân dân và thế trận lòng dân đồng bộ, thống nhất, chặt chẽ, từ chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và phương án trên phạm vi cả nước cũng như từng vùng, miền, địa phương; sự phối hợp Quân đội nhân dân và Công an nhân dân là nhân tố quyết định để hình thành thế trận tổng hợp bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong mọi tình huống.
Do đó, Công an các đơn vị, địa phương cần phối hợp chặt chẽ với các đơn vị quân đội tương ứng, cơ quan quân sự địa phương cùng địa bàn, có liên quan, trong xây dựng thế trận lòng dân, nền an ninh nhân dân, thế trận an ninh nhân dân; xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân, làm nòng cốt trong xây dựng thế trận tổng hợp bảo vệ Tổ quốc.
Cần thường xuyên, kịp thời trao đổi thông tin, hiệp đồng chặt chẽ với Quân đội nhân dân trong thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh ở các cấp độ và trong những tình huống cụ thể theo các nghị quyết, chỉ thị của Đảng cũng như quy định của Hiến pháp, pháp luật; trong sẵn sàng chiến đấu bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc trong mọi tình huống.
Ba là, xây dựng lực lượng Công an nhân dân chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại; trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức, tuyệt đối trung thành với Đảng, Nhà nước và nhân dân, để thực hiện tốt hơn vai trò nòng cốt trong bảo vệ an ninh, trật tự, đấu tranh phòng, chống tội phạm.
Không ngừng học tập tư tưởng, phong cách, đạo đức Hồ Chí Minh, làm theo Sáu điều Bác Hồ dạy Công an nhân dân, tiếp tục gương mẫu đi đầu trong thực hiện các nghị quyết, chỉ thị của Đảng về xây dựng Đảng và công tác cán bộ, đảng viên, trọng tâm là Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII); thượng tôn Hiến pháp và pháp luật; xây dựng xã hội trật tự, kỷ cương, lành mạnh.
Công an nhân dân phải thấm nhuần quan điểm trọng dân, gần dân, gắn bó mật thiết với nhân dân, vì nhân dân phục vụ, để bảo đảm vững chắc an ninh, trật tự; lấy công tác dân vận làm nền tảng trong triển khai các biện pháp công tác Công an.